Sự phát triển Essex_(lớp_tàu_sân_bay)

Sau khi Nhật Bản hủy bỏ các hiệp ước giải trừ quân bị vào năm 1936, phía Mỹ bắt đầu xem xét một cách thực tiễn sức mạnh hải quân của họ. Với đạo luật Phát triển Hải quân được Quốc hội Mỹ thông qua ngày 17 tháng 5 năm 1938, cho phép gia tăng thêm 40.000 tấn tàu sân bay. Điều này đã cho phép chế tạo chiếc Hornet và chiếc Essex (CV-9), trở thành chiếc dẫn đầu trong lớp của nó.

Chiếc CV-9 trở thành kiểu mẫu cho loại tàu sân bay có lượng rẽ nước tiêu chuẩn 27.000 tấn, khá lớn so với chiếc Enterprise, nhưng vẫn còn nhỏ hơn so với chiếc Saratoga (một chiếc tàu chiến-tuần dương được cải biến thành tàu sân bay). Những tiêu chuẩn này dần dần được biết đến như là những tàu sân bay thuộc lớp Essex. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1940, có thêm tám chiếc tàu sân bay loại này được đặt hàng: Hornet, Franklin, Ticonderoga, Randolph, Lexington, Bunker Hill, WaspHancock. Hai chiếc cuối cùng trong loạt mười ba chiếc được lên kế hoạch chế tạo ban đầu, BenningtonBoxer, được đặt hàng vào ngày 15 tháng 12 năm 1941.

Kế hoạch năm 1941 dành cho lớp Essex.

Lexington, Wasp, Hornet, và Yorktown được đổi tên đang trong quá trình chế tạo, nhằm duy trì ý định của Hải quân Mỹ muốn tiếp nối truyền thống của những con tàu chiến đấu trước đó, bị đánh chìm trong năm 1942. Trong số 13 chiếc lớp Essex tàu nguyên thủy được đặt hàng, bốn chiếc (Ticonderoga, Randolph, Hancock và Boxer) được cải biến trong quá trình chế tạo như là một phần của nhóm "thân dài", với mũi tàu được kéo dài nhằm cung cấp chỗ cho khẩu đội pháo phòng không bổ sung trước mũi.

Sau đó có thêm mười chín chiếc Essex được đặt hàng hoặc được lên kế hoạch, bắt đầu với mười chiếc vào ngày 7 tháng 8 năm 1942. Chỉ có hai chiếc Bon Homme Richard (CV-31)Oriskany (CV-34) được đặt lườn như kiểu tàu Essex "thân ngắn", số còn lại trở thành kiểu tàu "thân dài" hay còn gọi là lớp Ticonderoga.

Lexington (CV-16) ban đầu được đặt lườn dưới tên gọi Cabot, nhưng nó đã được đổi tên trong quá trình chế tạo sau khi chiếc Lexington (CV-2) nguyên thủy bị mất trong quá trình trận chiến biển Coral vào tháng 5 năm 1942; nó được đưa vào hoạt động ngày 17 tháng 2 năm 1943. Yorktown (CV-10), ban đầu được đặt tên là Bon Homme Richard, được đổi tên sau khi chiếc Yorktown (CV-5) nguyên thủy bị mất trong trận Midway ngày 7 tháng 6 năm 1942. Tên của chiếc Wasp (CV-18) được đổi từ Oriskany sau khi chiếc Wasp (CV-7) nguyên thủy bị đánh chìm vào tháng 9 năm 1942 tại Nam Thái Bình Dương trong khi đang hộ tống một đoàn tàu vận tải đến Guadalcanal; và tên của chiếc Hornet (CV-12) được đổi từ Kearsarge sau khi chiếc tàu sân bay nguyên thủy Hornet (CV-8) bị mất vào tháng 10 năm 1942 trong trận chiến quần đảo Santa Cruz.

Tóm lại, trong quá trình Thế chiến II và cho đến khi kết thúc, Hải quân Mỹ đã đặt hàng 32 tàu sân bay thuộc các lớp Essex và Ticonderoga, trong đó 26 chiếc đã được đặt lườn và 24 chiếc được đưa vào hoạt động thực tế.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Essex_(lớp_tàu_sân_bay) http://www.ussoriskany.com/id17.html http://nssdc.gsfc.nasa.gov/nmc/spacecraftDisplay.d... http://nssdc.gsfc.nasa.gov/nmc/spacecraftDisplay.d... http://nssdc.gsfc.nasa.gov/nmc/spacecraftDisplay.d... http://history.nasa.gov/SP-4012/vol3/table2.49.htm http://www.hq.nasa.gov/office/pao/History/SP-4201/... http://www.hq.nasa.gov/office/pao/History/SP-4203/... http://www.hq.nasa.gov/office/pao/History/SP-4205/... http://www.skyhawk.org/3e/va93/va93.htm http://www.uss-bennington.org/airgroups.html